Thống kê
Trực tuyến: 8
Lượt truy cập: 036551
|
.:. Vụ việc tư vấn
Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp
Vợ chồng ông Nguyễn Văn A có quyền sử dụng hợp pháp diện tích đất 300 m2 đất ở, trong đó có 100 m2 có tranh chấp với ông Trần Văn B do ông B xây nhà trên phần đất này. Vụ án tranh chấp đã được giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật năm 2000 của tòa án có thẩm quyền với nội dung:
- Hủy quyết định và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở 300 m2 đã cấp cho vợ chồng ông Trẩn Văn B;
- Yêu cầu UBND huyện K xác định lại phần diện tích đất hợp pháp của hộ gia đình ông Nguyễn Văn A, hộ gia đình ông Trần Văn B và các hộ liên kề. Trên cơ sở đó UBND thị trấn V, huyện K tỉnh T lập biên bản bàn giao đất ở và Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện K xác định lại diện tích đất hợp pháp cho vợ chồng ông A. Sau đó ông Nguyễn Văn A bị UBND huyện K thu hồi 200 me đất ở và được Nhà nước bồi thường 500 triệu đồng theo đúng khung giá đất. Trong quyết định thu hồi đất UBND huyện K giao cho UBND thị trấn V thanh toán tiền cho các hộ bị thu hồi đất, trong đó có hộ gia đình ông A. Ông A đồng ý với quyết định thu hồi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và không khiếu nại gì.
- Sau 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của UBND huyện K có hiệu lực, ông A được UBND thị trấn V thanh toán trả tiền đền bù là 250 triệu đồng, còn lại 250 triệu đồng UBND thị trấn V hẹn ông khi nào UBND thị trấn thu được tiền sử dụng đất thì sẽ thanh toán trả cho ông A số tiền còn thiếu. Qua 60 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất và đền bù giá trị quyền sử dụng đất có hiệu lực, do không thu được tiền sr dụng đất vì gia đình ông B không tự nguyên thi hành bản án năm 2000 (gia đình ông B cho rằng đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án) nên UBND thị trấn V không có tiền thanh toán trả cho ông A. Ông A đã có đơn khiếu nại với nội dung đề nghị UBND huyện K xem xét giải quyết. UBND huyện K trả lời là giao cho UBND thị trấn V có trách nhiệm thanh toán. UBND thị trấn V trả lời là không có tiền trả ông A. - Ông A đã làm đơn khởi kiện UBND thị trấn V ra tòa án giải quyết bằng vụ án dân sự với yêu cầu buộc UBND thị trấn V phải thanh toán trả ông số tiền 250 triệu đồng. - Tòa án đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của ông A, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp phát sinh liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông A và ông B. Xung quanh yêu cầu của ông A tồn tại các qun điểm xác định quan hệ pháp luật khác nhau:
Quan hệ pháp luật tranh chấp phát sinh trong vụ việc này được xác định như thế nào? Trả lời: Căn cứ quy định của pháp luật đất đai và pháp luật dân sự, tố tụng dân sự, chúng ta có thể đánh giá các quan điểm khác nhau về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp phát sinh trong vụ án nói trên như sau:
Căn cứ đơn khởi kiện yêu cầu của nguyên đơn trong vụ án là “xác định quyền sử dụng đất thuộc về nguyên đơn và đề nghị tòa án buộc bị đơn phải tháo dỡ công trình tài sản gắn liền với đất”, tòa án xác định đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Trước khi ông A làm đơn khởi kiện ra tòa án thì vợ chồng ông A đã có biên bản bàn giao đất của UBND thị trấn V. Biên bản đang xác định lại phần đất hợp pháp của Phòng TN & MT huyện K đối với diện tích 100 m2 đất. Như vậy, không thể xác định đây là tranh chấp quyền sử dụng đất. Bởi lẽ một mặt thực tế diện tích đất trên đã được bản án năm 2000 của tòa có thẩm quyền xem xét sau đó UBND thị trấn V có biên bản gia đất ở và phòng TN & MT huyện K xác định lại diện tích đất hợp pháp cho vợ chồng ông A. Nếu xác định đây là tranh chấp quyền sử đụng đất thì sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.. Bên cạnh đó , theo quan hệ tranh chấp về quyền sử dụng đất, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 16 của BLTTDS, nếu tòa án trong giai đoạn tiến hành xem xét đơn, chưa thụ lý vụ án thì ra thông báo trả lại đơn khởi kiện cho vợ chồng ông A. Nếu tòa án đã thụ lý và đang tiến hành giải quyết vụ án thì căn cứ vào khoản 2 Điều 192 của BLTTDS , Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án, xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Mặt khác, tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất về bản chất nhằm xác định ai đã xây dựng đầu tư, nâng cấp giá trị tài sản trên đất để quyết định buộc hay không buộc tháo dỡ công trình, tài sản gắn liền với đất. Quan hệ pháp luật này phù hợp với yêu cầu mà vợ chồng ong A đỡ khởi kiện và đang đề nghị tòa xem xét giải quyết theo quy định tại Điều 5 BLTTDS về quyền tự định đoạt của đương sự.
Mặc dù đơn khởi kiện của nguyên đơn là yêu cầu tháo dỡ công trình, tài sản gắn liền với đất để trả lại đất và mặt bằng diện tích 100 m2 đất ở. Tuy nhiên khi giải quyết yêu cầu này, trước tiên tòa án phải xác định quyền sử dụng đất này thuộc về ai, việc xây dựng công trình và tài sản gắn liền với đất có hợp pháp hay không để có căn cứ buộc vợ chồng ông B phải tháo dỡ công trình và tài sản gắn liền trên đất. Căn cứ vào biên bản giao đất của UBND thị trấn V, biên bản xác định lại phần đất hợp pháp cho hộ ông A được Phòng TNMT thực hiện. - Việc ông A được UBND thị trấn V lập biên bản giao đất hay biên bản xác định lại phần đất hợp pháp của phòng TNMT cũng chỉ là căn cứ để xác định sự kiện pháp lý về việc vợ chồng ông A được giao đất, còn thực tế UBND huyên K chưa có bất kỳ một quyết định giao đất nào cho vợ chồng ông A theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 13 Luật Đất đai năm 1993 và khoản 2 Điều 37 Luật Đất đai năm 2003. Về bản án năm 2000 tòa chỉ giải quyết hai vấn đề là (1. Hủy quyết định và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở 300 m2 đã cấp cho vợ chồng ông Trẩn Văn B; 2. Yêu cầu UBND huyện K xác định lại phần diện tích đất hợp pháp của hộ gia đình ông Nguyễn Văn A, hộ gia đình ông Trần Văn B và các hộ liên kề) chứ không quyết định phần đất đó thuộc quyền sử dụng của ai. Nên đó cũng là lý do cho đến tháng 1 năm 2011 UBND huyên K mới giao cho phòng TNMT xác định lại phần diện tích đất hợp pháp của ông A. Đây chỉ là cơ sở pháp lý để Tòa xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A và buộc ông B phải tháo dỡ công trình để trả lại đất và mặt bằng diện tích 100 m2 cho ông A. - Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, cũng như các căn cứ pháp lý mà quan điểm nêu trên đã đưa ra. Mặc dù ông A khởi kiện UBND thị trấn V nhưng ông A không yêu cầu hủy quyết định cá biệt của UBND huyên K. Vì vậy, không có cơ sở để xác định đây là tranh chấp yêu cầu hủy quyết định các biệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền rõ ràng là trái pháp luật. Khi xem xét yêu cẩu của đương sự. Tòa án phải xác định được bản chất của quan hệ pháp luật và để đảm bảo nguyên tắc giải quyết toàn diện vụ án, cần thiết phải xem xét các qun hệ pháp luật phái sinh có liên quan. Theo quy định tại khoản 7 Điều 25 BLTTDS thì quan hệ tranh chấp quyền SDĐ, tài sản gắn liền với đất có nội dung rộng hơn so với tranh chấp dơn thuần về quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc tòa án xác định quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là đúng quy định của pháp luật Đất đai và pháp luật dân sự, tố tụng dân sự. (Nguồn tham khảo: Xử lý tình huống trong thi hành Luật đất đai 2013 do TS. Nguyễn Minh Hằng chủ biên) Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ với chúng tôi để được tư vấn đầy đủ: Chuyên viên tư vấn: Luật sư Mai Tiến Dũng Điện thoại: 04. 8585.4827 hoặc 0942.730.624 Địa chỉ: Tầng 3, 65 Nguyễn Du, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Website: http://vnlawfirm.net Các tin mới hơn:
Các tin cũ hơn:
|
Hỗ trợ trực tuyến
0775.911.685
|